Tổng quan về ngành chăn nuôi lợn giai đoạn 2019-2022: Con giống và thức ăn (P2)

2.1. Công tác quản lý chăn nuôi lợn

Công tác quản lý chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng được thực hiện theo các quy định quản lý bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Quy chuẩn kỹ thuật và Tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia khá hoàn thiện và hội nhập, gồm: Luật Chăn nuôi năm 2018; các Nghị định hướng dẫn Luật (Nghị định số 13/2020/NĐ-CP ngày 21/01/2020; Nghị định số 46/2022/NĐ-CP ngày 13/7/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 13/2020/NĐ-CP), Nghị định số 14/2021/NĐ-CP ngày 01/3/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về chăn nuôi; các Thông tư như Thông tư số 20/2019/TT-BNNPTNT ngày 22/11/2019 của Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định việc cập nhật, khai thác và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về chăn nuôi, Thông tư số 22/2019/TT-BNNPTNT ngày 30/11/2019 của Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn một số điều của luật chăn nuôi về quản lý giống và sản phẩm giống vật nuôi, Thông tư số 23/2019/TT-BNNPTNT ngày 30/11/2019 của Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn một số điều của luật chăn nuôi về hoạt động chăn nuôi…  Bên cạnh đó có hệ thống 60 Tiêu chuẩn quốc gia và 34 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lĩnh vực chăn nuôi.

2.2. Các yếu tố ảnh hưởng

2.2.1. Về con giống  

Trong thời gian qua, đàn lợn giống và tổng đàn lợn nái cũng có sự biến động qua các năm và hiện nay ổn định khoảng 3,0 triệu con lợn nái; tổng đàn nái cấp giống cụ kỵ, ông bà dao động từ 109 – 138 nghìn con.

Cụ thể, năm 2022, tổng đàn nái trên cả nước đạt trên 3,0 triệu con (chiếm 10,4% tổng đàn lợn) giảm 0,5% so cùng kỳ năm 2021. Trong đó, đàn cụ kỵ, ông bà (nái cụ kỵ chiếm khoảng 15% và nái ông bà chiếm 85%) đạt 137 nghìn con (chiếm 4,5% tổng đàn nái); lợn đực giống ước đạt 74,9 nghìn con, tăng 17% so với năm 2021.

Hình 5. Cơ cấu đàn lợn nái của Việt Nam phân bố theo các vùng sinh thái qua các năm (ĐVT triệu con – nguồn Tổng cục Thống kê)

Việt Nam đã nhập các nguồn gen lợn cao sản có chất lượng cao thuộc các dòng, giống Landrace, Yorkshire, Duroc và Pietrain từ các nước Pháp, Mỹ, Canada, Thái Lan, Đài Loan, Đan Mạch để làm nguyên liệu lai tạo ra đàn lợn nái sản xuất. Đàn lợn nái sản xuất hiện nay đối với giống lợn ngoại chủ yếu là các dòng tổng hợp được kết hợp giữa các nguồn khác nhau trong cùng giống hay lai khác giống (chiếm 80%). Bên cạnh các giống lợn ngoại phục vụ chăn nuôi công nghiệp thì nái lai giữa lợn ngoại với lợn nội và lợn nái nội thuần còn chiếm tỷ lệ khá cao (chiếm 20%). Hằng năm, đàn lợn nái được thay thế bình quân 25%.

Giai đoạn 2017 – 2022, số lượng lợn giống cụ kỵ và ông bà sản xuất trong nước để thay thế đàn khoảng 89%, còn 11% nhập khẩu để thay thế, làm tươi máu cải tiến năng suất giống lợn trong nước. Cả nước có 467 cơ sở sản xuất và cung cấp lợn giống với 240 cơ sở nuôi giữ lợn nái giống cụ kỵ (GGP), ông bà (GP), trong đó các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp trong nước có 116 cơ sở với tổng đàn nái trên 48 nghìn con, chiếm 48,3% tổng cơ sở giống và 35,0% tổng đàn nái GP, GGP trong cả nước; các doanh nghiệp FDI (CP, Japfa Comfeed …) có 124 cơ sở với tổng đàn nái có trên 89 nghìn con, chiếm 51,6% tổng số cơ sở giống và 65,0% tổng đàn nái GP, GGP của cả nước. Năm 2022, cả nước có khoảng 74,9 nghìn con lợn đực giống. Trong đó, số lợn đực sản xuất tinh để phối giống nhân tạo là 35,9 nghìn con (chiếm 48,0%); đàn lợn đực giống phối trực tiếp là 38,9 nghìn con (chiếm 52,0%), chủ yếu nuôi trong dân.

Công tác lai tạo, chọn giống lợn trong giai đoạn vừa qua có nhiều chuyển biến tích cực: Lợn Landrace, Yorkshire, Duroc ông bà cao sản có số con cai sữa/nái/năm đạt 24,7 – 27,8; lợn bố mẹ của 3 dòng có tiềm năng sản xuất có số con cai sữa/nái/năm đạt 27,5 – 28,5 con. Đây là những giống lợn được chọn tạo từ các nguồn gen lợn Landrace, Yorkshire, Duroc từ Mỹ, Pháp, Đan Mạch, Đài Loan, Canada có tính thích nghi cao với điều kiện Việt nam. Dòng lợn chuyên hóa chọn tạo từ các giống lợn Landrace, Yorkshire và lợn Meishan có số con cai sữa/nái/năm đạt 23,2 – 26,1 con/lứa, lợn đực giống có tăng trọng trên 850 gam/ngày, lợn thịt thương phẩm từ các tổ hợp đực, cái trên có tăng trọng 774 – 805 gam/ngày, tiêu tốn 2,64 – 2,72 kg thức ăn/kg tăng khối lượng.

2.2.2. Về thức ăn chăn nuôi

Năm 2018, sản lượng TACN công nghiệp đạt 18,8 triệu tấn, tăng lên 21,9 triệu tấn vào năm 2021 và giảm còn 20,5 triệu tấn trong năm 2022. Giai đoạn 2019 – 2020, cơ cấu sản lượng TACN thay đổi theo hướng giảm dần TACN cho lợn (do ảnh hưởng của Dịch tả lợn châu Phi gây thiệt hại lớn cho đàn lợn) và tăng dần TACN cho gia cầm. Đến giai đoạn 2021 – 2022, cơ cấu sản lượng TACN đã có sự thay đổi theo hướng tăng dần TACN cho lợn và giảm dần TACN cho gia cầm. Thông tin chi tiết được trình bày tại Bảng 3.

Bảng 3. Cơ cấu sản lượng TACN giai đoạn 2019-2022 theo vật nuôi

Nhu cầu nguyên liệu phục vụ sản xuất TACN của nước ta là rất lớn, tuy nhiên do năng lực sản xuất nguyên liệu trong nước còn hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất TACN công nghiệp nói riêng và ngành chăn nuôi nói chung. Vì vậy, hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 20 triệu tấn nguyên liệu TACN, chủ yếu là sản phẩm của ngành trồng trọt, cụ thể: ngô 7,3 triệu tấn; lúa mì và lúa mạch 1,5 triệu tấn; khô dầu các loại 4,7 triệu tấn; DDGS (phụ phẩm của quá trình sản xuất ethanol) 1,0 triệu tấn; cám các loại 550 nghìn tấn và một số nguyên liệu nguồn gốc động vật (bột thịt xương, bột gia cầm, bột lông vũ, bột máu…) 1,8 triệu tấn.

Do phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên giá TACN trong nước luôn chịu tác động trực tiếp từ biến động giá nguyên liệu TACN trên thế giới. Giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 10 năm 2020 nhìn chung giá TACN rất ổn định, thậm chí có thời điểm giảm thấp (năm 2017). Tuy nhiên từ cuối năm 2020 đến nay giá nguyên liệu TACN tăng cao (cả nguyên liệu trong nước và nguyên liệu nhập khẩu), do đó giá sản phẩm TACN thành phẩm cũng tăng cao (chi phí nguyên liệu chiếm khoảng 85% tổng chi phí của giá thành sản phẩm TACN). Giá TACN liên tục tăng cao đã ảnh hưởng rất lớn đến chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng.

Trong 06 tháng đầu năm 2023 giá hầu hết nguyên liệu TACN có xu hướng giảm so với mặt bằng chung năm 2022, trong đó: Lysine giảm 18,7%, ngô giảm 4%, cám gạo giảm 0,5%, DDGS giảm 0,2%. Tuy nhiên, giá khô dầu đậu tương vẫn duy trì ở mức cao so với năm 2022 (tăng 1,7%). Do giá TACN thành phẩm mới bắt đầu giảm kể từ tháng 3/2023 cho đến nay, nên giá TACN trong 6 tháng đầu năm 2023 vẫn cao hơn 1,1-2,1% so với năm 2022.

Nhìn chung, mặc dù giá nguyên liệu TACN đã bắt đầu giảm trong các tháng gần đây, tuy nhiên hiện tại vẫn duy trì ở mức rất cao (từ 41,5-55,7%) so với giai đoạn trước dịch Covid-19 (năm 2020). Do đó, giá TACN thành phẩm trong 6 tháng đầu năm 2023 vẫn cao hơn từ 37,1-43,0% so với giá TACN trong giai đoạn trước dịch (2020). Thông tin chi tiết được trình bày tại Bảng 4

Bảng 4. Giá một số nguyên liệu và TACN thành phẩm giai đoạn 2020 – 2023 (ĐVT đồng/kg)

Theo Tạp Chí Chăn Nuôi Việt Nam

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *